LÊ TIẾN CÔNG
Luận văn cử nhân sử học
Đại học Khoa học Huế
Khoá 1998 - 2002
Năm bảo vệ luận văn: 2002
Giảng viên hướng dẫn:
1. PGS. TS. Đỗ Bang
2. Thạc sĩ Nguyễn Quang Trung Tiến
Đề tài luận văn:
TÌM HIỂU NHÂN VẬT LỊCH SỬ
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)
Vài lời của TXA.
Đây là nguyên văn bản luận văn được Lê Tiến Công bảo vệ thành công vào mùa hè 2002 để nhận bằng cử nhân sử học tại Đại học Khoa học Huế, chưa được anh chỉnh sửa các lỗi gõ phím vi tính.
Tôi được sự uỷ nhiệm của Lê Tiến Công, một nghiên cứu sinh vừa trình luận án thạc sĩ (2006), để “biên tập” lại các lỗi nói trên, viết một đôi lời gọi là “phản biện”. Nhưng trước mắt tôi cứ để nguyên vẹn như nguyên bản vốn có (bản nhận lần thứ hai, 18-11 HB6 [2006]). Tôi có ý định sẽ đối chiếu lại với bản trước đây, nhận vào ngày 16-3 HB5 (2005), năm ngoái, và cùng lúc sẽ “biên tập” lỗi gõ phím; sau đó mới có thể phản biện đôi điều.
Xin vui lòng xem lại "Vài lời..." ở khung trang trước.
Trân trọng giới thiệu với người đọc.
TXA.
Tối thứ sáu (thứ bảy cũ), ngày 18-11 HB6 (2006)
tại TP. HCM.(Tiếp theo phần 1)
2.4.2. Chuẩn bị cho cuộc kháng Pháp.Việc phế lập cũng như loại trừ các phần tử chủ hòa chính là một phần và là cơ sở cho việc chuẩn bị lực lượng kháng Pháp. Với tư cách là thượng thư đầu triều cho đến trước ngày kinh đô thất thủ (5 / 7 / 1885), Nguyễn Văn Tường đã cùng lúc tiến hành hai hoạt động, vừa khéo léo trong thương thuyết, quan hệ [ngoại giao – bt.] làm giảm sự ràng buộc đối với Pháp lại vừa phối hợp với Tôn Thất Thuyết chuẩn bị lực lượng kháng Pháp trong toàn quốc.
Trong quan hệ với Pháp, cho dù đã phải nhượng bộ ký hiệp ước 1874, song sau đó chính Nguyễn Văn Tường đã xúi giục Tự Đức xem thường hiệp ước. Kết quả là
“những đòi hỏi của ông Rheinart gửi cho Tự Đức gặp phải sự bất đồng có tính toán cũng như gặp phải các phương pháp cách ly và kìm hãm có hệ thống do ác ý và nghi ngờ làm cho những điều nhượng bộ của họ đối với ta thành ra vô hiệu” [16, 39]. Như vậy là từ thời Tự Đức, Nguyễn Văn Tường đã tìm cách ngăn trở người Pháp. Và từ sau khi Thuận An thất thủ (8 / 1883), Nguyễn Văn Tường đã cố tình lẩn tránh trách nhiệm thi hành các điều ước bằng việc không chính thức ký vào hiệp ước Patenôtre. Người Pháp đã ghi nhận điều đó:
“Ông Nguyễn Văn Tường cử hai đại diện để ông khỏi phải tự tay ký tên, đến thương thuyết ở nhà phái bộ. Cái từ “bảo hộ’’ đã được bàn cãi kỹ lưỡng, rồi đến điều khoản V (năm) cho phép khâm sứ và tùy tùng được đóng ở Mang Cá, trong thành nội cũ được bàn cãi rất lâu” [16, 59]. Cho đến khi hiệp ước đã ký rồi Nguyễn Văn Tường vẫn tìm đủ cách quanh co không cho Pháp đóng quân ở Mang Cá. Thậm chí trong cách hiểu của người Pháp thì Nguyễn Văn Tường đã xoay xở bằng mọi cách như việc giết vua Kiến Phúc để không phải thi hành hiệp ước đã ký. Rồi sau đó Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi lên ngôi mà Không thông qua “bảo hộ” lại càng gây nên mâu thuẫn, như là sự thách thức đối với quân Pháp.
“Cũng năm trước đó, sau khi Vua Hiệp Hòa mất, vị thừa kế Kiến Phúc được cử lên không có ý kiến của chúng ta, mặc dù có những phản kháng của De [hoặc de; viết hoa theo quy tắc tiếng Việt – bt.] Champeaux. Chúng ta không thể tha thứ cho một vi phạm về các quyền hạn mà chúng ta được thừa nhận ở hiệp ước ngày 25 / 8 / 1883” [72, 77 ]. Vì thế mà tướng Pháp Millot đã đưa gấp một trung đoàn vào Huế để chiếm kinh thành và để tấn tôn vua mới. Sau những trao đổi căng thẳng giữa một bên là Nguyễn Văn Tường, một bên là Guerrier và Rheinart. Cuối cùng thì lễ thụ phong cũng diễn ra với sự tổ chức hoàn hảo của phía triều đình Huế. Ở đây chúng tôi chỉ muốn nói đến sự hạn chế, né tránh và thái độ thoái thác các đề nghị [của Pháp mà] Nguyễn Văn Tường [ứng xử - bt.] đối với quân Pháp. A. Delvaux ghi nhận:
“Ngày hôm sau (17 / 8 / 1884) vào lúc 09 h 00 sáng, ông Guerrier và ông Rheinart đến hoàng cung với 25 sĩ quan lục quân và hải quân với 160 lính, ông đi vào không đeo gươm, bằng cổng chính theo sau kiệu để trống của nhà vua, đi đến tận ngai đặt giải bắc đẩu bội tinh vào đấy, khi trở về thì thấy cổng đã đóng lại, ông phải ra cổng bên. Trong khi các vị quan lại cười thầm chế giễu buổi lễ kì cục và nhục nhã dành cho ông đại tá... Nói chung chẳng có gì thay đổi ở Huế ngoài sự đổi tên của nhà vua” [16, 62]. Có thể nói sự “dàn dựng” lễ tấn phong là thành công lớn của phe chủ chiến.
Đến lượt Pháp đòi đóng quân ở đồn Mang cá, đó là điều bất lợi cho phe chủ chiến, vì vậy Nguyên Văn Tường đã phản đối quyết liệt:
“Ông phụ chính Tường đúng như chúng ta đã dự đoán, lại phản đối kịch liệt hơn bằng cách cho rằng hiệp ước chưa được phê chuẩn và điều V được nói trong hiệp ước là do bị ép, và sự chiếm đóng này sẽ làm dân nổi loạn. Nhưng lý do thực tế là đồn Pháp đóng gần gây trở ngại cho việc phòng thủ kinh đô Huế, công việc mà ông phụ chính muốn giấu các nhà chức trách Pháp” [16, 63]. Tiếp đó Nguyễn Văn Tường yêu cầu điều khoản V của hiệp ước này phải được sửa đổi theo nội dung là đồn lính của công sứ
“phải nằm ở ngoài thành để khỏi làm mất uy danh của triều đình cũng như khỏi gây mối lo sợ cho dân chúng” [16, 65].
Việc xử lí chiếc ấn do Trung Hoa cấp cũng rất gay cấn. Patenôtre muốn đưa về Paris, Nguyễn Văn Tường không chấp nhận, ông đã trả lời rất khẳng khái:
“Vậy các ông muốn các sĩ phu cho tôi uống thuốc độc hay sao?”. Cuối cùng chiếc ấn phải nấu chảy thành nước.
Nguyễn Văn Tường cũng tỏ ra rất cứng rắn trong việc giằng co vụ án hoàng thân Gia Hưng, người mà ông Rheinart có ý định đưa lên làm vua. Việc bắt giữ ông hoàng Gia Hưng bị phản đối quyết liệt của Le Maire, nhưng Nguyễn Văn Tường đã tuyên bố:
“Ông hoàng phải được tòa án An Nam xét xử về những hành vi về đời tư” [16, 67]. Sau đợt này, không những ông hoàng Gia Hưng mà các tay chân cũng bị loại bỏ.
Qua những hành động trên cho thấy tính quyết đoán và độc lập của Nguyễn Văn Tường. Ông đã phối hợp sát cánh với Tôn Thất Thuyết để xây dựng lực lượng kháng chiến lâu dài. Thực chất đây là tư tưởng kháng chiến từ trước nhưng đến khi Tự Đức mất mới có điều kiện cho phe chủ chiến phát triển trong toàn quốc.
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã lôi kéo Viện Cơ mật thỏa thuận với hai vấn đề quyết định:
“Ra một mật lệnh cho các sĩ phu định rõ ngày tàn sát cùng một lúc tất cả các giáo dân trong toàn quốc; sau khi loại kẻ tiếp tay cho quân xâm lược sẽ chuyển triều đình và chính phủ đến một pháo đài kiên cố và đến các vùng hiểm trở bất khả xâm phạm, đó chính là Cam Lộ hay đúng ra là Tân Sở, và đó là trung tâm liên kết các lực lượng ái quốc, là nơi triều đình sẽ tạm dừng chân” [16, 54].
Tuy nhiên, đối với việc sát đạo tuy đã chuẩn bị kỹ càng nhưng Nguyễn Văn Tường sợ nếu tiến hành việc sát đạo sẽ bất lợi khi chưa chuẩn bị chu đáo cho một cuộc đương đầu. Vì thế, các mật lệnh ban ra đã phải rút lại, song một số nơi không nhận được lệnh đã gây nên những cuộc thảm sát đẫm máu.
Việc xây dựng các công sự phòng thủ cũng được tiến hành ở Thành nội, Vạn Xuân, Quốc tử giám, các sơn phòng ở Quảng Nam, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa..., nhất là hệ thống sơn phòng Tân Sở - Quảng Trị.
Thành Tân Sở thuộc Cam Lộ ngày nay, nguyên là nơi được phái chủ chiến chọn làm kinh đô trong trường hợp Huế bị chiếm đóng.
Tân Sở được xúc tiến xây dựng từ năm 1883 và hoàn thành vào đầu năm 1885. Nguyễn Văn Tường chính là “kiến trúc sư” thiết kế và chỉ đạo xây dựng. Để xây dựng Tân Sở, đã phải huy động rất nhiều sức người sức của cũng như việc bí mật vận chuyển lương thực, vũ khí, vật liệu từ khắp nơi về đây.
“Xây dựng trên một diện tích rộng 23 ha, dài 548 mét, rộng 418 mét, xung quanh có 3 lớp thành đất, phía ngoài trồng tre gai, phía trong có hào sâu. Trong thành có nhiều trại lính, kho lương thực và kho chứa vũ khí, có cột cờ, nền súng và giếng nước. Ngoài thành cũng xây nhiều đồn lũy chiến đấu với nhiều kho súng đạn, các bãi tập, bãi chiến đấu của voi ngựa. Hệ thống thành lũy dinh trại này làm vật cản có chiều sâu nhằm bảo vệ cho thành nội ở bên trong” [5, 126].
Có thể nói, Tân Sở là một kinh thành thu nhỏ được Nguyễn VănTường vận dụng tất cả các hiểu biết về quân sự cũng như am hiểu về vùng đất mà ngày trước ông đã có nhiều thời gian làm việc ở đây.
Tuy nhiên, sau này khi lực lượng kháng chiến tới Tân Sở thì
“thủ đô phù du" [74, 224] này không được sử dụng như sự mong đợi. Điều đó một phần cũng do
“sự chuyển hướng chiến lược của phái chủ chiến” [66, 119].
Để hạn chế sức mạnh của quân viễn chinh Pháp, Nguyễn Văn Tường đã không ngừng ra các chỉ thị cho các quan chức ở Bắc kỳ để cấm họ không được tiếp tay cho quân viễn chinh, tuyển lính tập cũng như phu phen mà đạo quân này cần thiết.
Những động tĩnh của phe chủ chiến bị quân Pháp theo dõi rất kỹ và thông báo khá rõ. Puginier đã viết:
“Đã thật rõ ràng là đang diễn ra một âm mưu quan trọng được ban ra từ cấp trên với một mạng lưới hành động đông và rộng, có thể bùng nổ trong thời gian rất ngắn sắp tới. Tốt hơn hết là hãy để mắt coi chừng triều đình Huế và theo sát các hoạt động của họ từng ngày” [16, 66]. Một phóng sự từ Hải Phòng ngày 26 / 3 / 1885 của tờ báo “Thời đại” đã viết:
“Nhiều dư luận bí mật được biết tư Huế làm ta có thể tiên đoán một cuộc nổi dậy của người An Nam có thể xảy ra trong tháng tư... Đúng là chúng tôi vẫn làm trò cười cho dân tộc này” [16, 68].
Không chỉ ở Việt Nam mà hai ông phụ chính còn vươn tay đến tận Cao Miên nhằm lôi kéo sự chú ý của quân pháp ra bên ngoài:
“Một cuộc điều tra do sự chỉ đạo của ông Thomson ở Sài Gòn chứng minh rằng những rối loạn ở Cao Miên là do hai ông phụ chính xúi giục ngầm bọn ấy gây rối” [16, 64]. Và đến lúc này bọn Pháp mới thực sự thấy tiếc,
“tại sao ngày trước không thanh toán Nguyễn Văn Tường mà lại nhu nhược đến khôi hài trước một vị phụ chính tham lam và xảo quyệt mà ngay buổi đầu chỉ cần một tên cai và 4 lính cũng đủ để loại bỏ cho chúng ta. Một cuộc đảo chính như thế cách đây một năm khả dĩ có thể thực hiện được, rồi đây sẽ thành khó khăn, trong khi đó thì chúng ta đã dung túng sự phản đối và sẵn sàng nổi dậy” [16, 70].
Vậy là quân Pháp đã thấy rõ sự nguy hiểm của Nguyễn Văn Tường cũng như phe chủ chiến. Tướng de Courcy đến Việt Nam là để giải quyết mối lo ngại đó.
2.4.3. Nguyễn Văn Tường và vụ biến Kinh thành Huế 5 / 7 / 1885De Courcy đến Việt Nam với mục đích dứt khoát và rõ ràng:
“Ổn định Bắc Kỳ và ngăn chặn triều đình Huế đừng kích động và nuôi dưỡng các vụ bạo lực nào khác nữa” [16, 72]. Ngày 2 / 7, De Courcy đến Huế với 4 đại đội bộ binh, 2 tàu chiến với tuyên bố:
“Giải quyết vấn đề này tại Huế”,
“Tôi mang trong lòng những mối căm hờn đối với các vị phụ chính. Tôi sẽ hành động khẩn trương và cương quyết”. Tướng Brière de L’Ilste thì cho rằng:
“Tôi lại luôn nghĩ rằng cái cách duy nhất để giải quyết hiện tình là phải bắt cả hai người quan phụ chính” [39, 65]. Gosselin từng viết:
“Cái điều làm cho bọn thực dân hậm hực nhất là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm cả Bộ Binh và Bộ Lại. Pháp nhất quyết rằng lần này phải nắm vững toàn bộ Hội đồng phụ chính, tẩy trừ Thuyết, Tường ra khỏi hội đồng này” [dt., 39, 65].
Vừa đến Huế, De Courcy đã đòi mời các đại thần Cơ mật đến Tòa Khâm sứ để trao đổi hiệp ước Giáp thân cũng như xác định dứt khoát ngày làm lễ ra mắt vua để trao quốc thư của chính phủ Pháp. Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không sang vì
“ông Thuyết đã biết trước do sự tiết lộ sơ hở của một vệ quan tùy tùng đi theo tướng de Courcy” [16, 73]. Vì thế việc thương thuyết với De Courcy do Nguyễn Văn Tường [và Phạm Thận Duật – bt.] đảm nhận.
Cuộc thương thuyết về nghi lễ triều kiến vua Hàm Nghi rất căng thẳng vì những yêu sách của De Courcy.
“Ông De Courcy phải khó khăn lắm mới được chấp thuận cho đi vào cửa giữa của Hoàng cung với đoàn hộ tống vũ trang, nhưng Viện Cơ mật không muốn ông đi quá cột thứ hai bên phải. Ông thiếu tướng yêu cầu nhà vua phải đến trước mặt ông để nhận hiệp ước từ tay ông trước khi ngồi lên ngai” [16, 73]. Thế giằng co, cãi vã kéo dài, De Courcy đã đơn phương cắt đứt cuộc thương thuyết, đòi chờ khi nào Tôn Thất Thuyết lành bệnh mới hội kiến.
Tuy nhiên Nguyễn Văn Tường vẫn chủ trương thương thuyết để hạn chế sự đụng độ.
“Phụ chính thứ nhất Tường phàn nàn với de Courcy về sự tự do quá đáng và thái độ không tốt của lính Pháp. Ông De Courcy đã cấm lính Pháp không được đi vào trong Thành nội” [16, 73]. Qua tiếp xúc, Nguyễn Văn Tường đã thấy rõ âm mưu hành động của de Courcy, nên đã báo với Tôn Thất Thuyết.
“Quan quận đáo đến bộ đường
Nói cùng quan tướng tỏ tường mấy câu
Bách quan văn võ đến lầu
Rằng nghe tây nói mấy câu rõ ràng
Tiền đồng xin ba ngàn quan
Còn bạc với vàng vô số kỳ đa
Ba ngày thì phải đem qua
Không thì hai mươi bốn đáo gia bắt ngàì
Đêm khuya vắng vẻ không ai
Tôi nói với ngài chẳng để làm chi” [31, 71].
Tình thế cấp bách,Tôn Thất Thuyết quyết định hành động mà không báo cho Nguyễn Văn Tường biết. Những chuẩn bị mấy ngày qua, Nguyễn Văn Tường có để ý nhưng cho rằng
“đó cũng là thanh thế phòng bị vậy" [61, 220] mà ông không biết một cuộc chiến lớn sắp nổ ra.
Vậy tại sao trước một quyết định quan trọng như vậy mà Nguyễn Văn Tường không được cho biết? Điều này thực sự phức tạp, bởi nó liên quan đến quan hệ của hai người. Nhưng ở đây, ai trong chúng ta cũng có thể biết được Tôn Thất Thuyết vốn tính nóng nảy, luôn nghĩ đến chuyện đánh. Tình thế bị thúc ép mấy ngày nay đã buộc ông phải hành động. Hơn nữa Tôn Thất Thuyết lại nắm được toàn bộ binh quyền, có thể một mình xoay trở mà không phải bàn với Nguyễn Văn Tường. Một lí do quan trọng là Tôn Thất Thuyết rất hiểu Nguyễn Văn Tường, nếu bàn đến chuyện đánh lúc này thì rất có thể là Nguyễn Văn Tường không đồng ý. Cố nhiên giữa hai người đã bàn đến chuyện đánh Pháp sau đó sẽ ra Tân Sở tiếp tục kháng chiến, nhưng chưa thống nhất về ngày giờ cụ thể.
Khi đã bố trí, chuẩn bị khá chu đáo, vào đêm 22 / 5 / Ất dậu (4 / 7 / 1885) nhằm thời cơ quân Pháp đang say sưa yến tiệc ở Tòa Khâm sứ. Tôn Thất Thuyết chia quân làm hai đạo đánh thẳng vào Tòa Khâm sứ và đồn Mang cá. Quân Pháp hoàn toàn bất ngờ, chỉ bắn trả cầm chừng để đợi trời sáng.
“Đại Nam thực lục” chép:
“Nguyễn Văn Tường không biết chi hết... Khi ấy Nguyễn Văn Tường ở Bộ Lại đương ngủ, Binh bộ thự tham tri là bọn Hoàng Hữu Thường nghe súng nổ, tức thì đến gõ cửa báo Văn Tường biết. Tường dậy, sợ nói: nguy rồi, bèn vội vàng gửi tâu xin mở cửa Hiển Nhân và cửa Đại Cung chạy vào tả vu nhưng không biết làm thế nào” [61, 221].
Trời sáng rõ, quân Pháp mới tổ chức phản công. Quân triều đình nhanh chóng thất bại. Nguyễn Văn Tường vào chỗ Tôn Thất Thuyết điều khiển,
“nhìn trông biết là thất bại rồi” [61, 221], mới vào xin vua và Tam Cung lên Khiêm lăng tạm thời lánh nạn. Kế hoạch của phe chủ chiến là sẽ đến “kinh đô kháng chiến" Tân Sở nhưng đến đoạn Kim Long, Nguyễn Văn Tường muốn đưa vua và Tam cung lên Khiêm lăng để tiếp tục thương thuyết. Điều này bị Hồ Văn Hiển phản đối kịch liệt. Vì vậy, đoàn xa giá tiếp tục ra Quảng Trị mà Nguyễn Văn Tường thì ở lại Huế.
“Thực lục” ghi:
“Văn Tường vâng ý chỉ Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưu lại gíảng hòa; tức thì đi tắt vào nhà thờ đạo Kim Long” [61, 221]. Việc này
“Hạnh Thục ca” cũng nói:
“Thấy người trước đón lên đường
Gửi rằng: Có Nguyễn Văn Tường chực đây
Phán rằng: Sự đã dường này
Ngươi tua ở lại ngõ rày xử phân
Vâng lời Tường mới lui chân” [64, 39]
Nhưng cũng chính
“Hạnh Thục ca” ghi:
“Kim Long vừa mới tới nơi
Rốn xin dừng lại đạo nay có lòng
Song mà ai khứng tin cùng
Chỉ đường Hồ Hiển thẳng dong giục truyền” [64, 40].
Điều này giống với
“Vè Thất thủ kinh đô”:
“Băng chừng vừa đến nhà Chung
Mới hay ông quận có lòng tà Tây
Xin mời thánh thượng vào đây
Đặng tôi trình trú qua ngày giao chinh
Quan Hữu nghe nói tri tình
Kiếm vàng liền tuốt chỉ danh gian tà”...Vì thế:
“Quan quận nghe nói thất kinh
Vô nhà chung đạo tránh mình ẩn thân” [31, 81]
Việc này được chính Nguyễn Văn Tường nói lại trong một lá thư gửi cho chính phủ Pháp năm 1886 ở Tahiti, chỉ khác một điều là Nguyễn Văn Tường khi đã vào nhà thờ Kim Long, sau đó
“được phúc thư của quan khâm sứ, nói rằng nên rước hoàng đế và sẽ được hòa hảo, không ngại gì, tức thiểm lên chùa Thiên Mụ thì ngự giá cùng Tam cung đã bị Tôn Thất Thuyết đưa ra tỉnh Quảng Trị” [40, 41 ].
“Đại loạn năm Ất dậu” của một tác giả khuyết danh cũng ghi lại nội dung này nhưng là để ám chỉ rằng Nguyễn Văn Tường làm như thế là để đánh lừa De Courcy mà thôi.
“Ai ngờ kia làm việc bậy quá to
Bỗng chốc dĩ đào vi thượng sách
Toàn nghe nói tưởng Tường kim thạch
Mà nổi cơn giận Thuyết lôi đình” [80, 478]
Tóm lại là ở đây có hai loại ý kiến: Một là Nguyễn Văn Tường theo khẩu dụ của Từ Dụ ở lại thương thuyết. Ý kiến khác cho rằng ông ở lại như là sự lẩn trốn. Dù sao thì ông cũng ở lại Huế. Điều này thực sự làm cho không biết bao nhiêu thế hệ rát khó nhận diện về ông.
5. Từ sau ngày 5 / 7 /1885: những ngày tháng cuối cùng.
2.5.1. Nguyễn Văn Tường và hai tháng ở Huế (5/7 đến 6/9/1885)Nguyễn Văn Tường vào nhà thờ Kim Long gặp linh [giám - bt.] mục Caspar[d], nhờ linh [giám - bt.] mục này viết thư trần tình với de Courcy
“lại xin giảng hòa” [61, 222]. De Courcy đã chấp nhận đề nghị ấy với điều kiện trong hai tháng phải rước vua và Tam Cung trở về cũng như ổn định tình hình ở Huế.
Vậy phải chăng De Courcy đã mắc lừa Nguyễn Văn Tường?
“Dậu tuất niên gian phong hỏa ký sự” viết:
“Khéo làm chước nhiệm mưu sâu
Pháp quan mắc mớp tưởng đâu thiệt tình
Vốn là cái kế hưỡn binh” [80, 517]
Nghĩa là Pháp đã “mắc mớp”? Thực sự không phải như thế? De Courcy quá biết Nguyễn Văn Tường thuộc nhóm cứng rắn đã từng cản trở quân Pháp và quân Pháp cũng muốn
“đập cho tan tành”, song giờ đây trong một cái thế hỗn loạn, Hàm Nghi đã rời kinh thành, lấy ai để thi hành các điều ước đã ký? Sự lúng túng chính trị bộc lộ rõ trong hàng ngũ sĩ quan Pháp. Gosselin đã viết:
“Chúng ta gặp rắc rối vô cùng vì cuộc xung đột đổ máu đêm 5 / 7 / 1885 đã biến đổi hoàn toàn thế cục xứ An Nam. Vị vua trẻ tuổi đã rời bỏ kinh thành thì ở Huế không còn có chính phủ, không có chính quyền, không còn có ai có thể thi hành các điều ước liên tiếp mà chúng ta đã ký với nước này” [dt., 67, 214]. Tướng De Courcy thì như reo lên trong cú điện báo về Paris:
“Phụ chính Tường đã trong tay chúng tôi” [16, 77]. Như thế, Nguyễn Văn Tường ở lại thực sự là một cơ may vớt vát lúc này cho quân Pháp. De Courcy chấp nhận Nguyễn Văn Tường không phải vì niềm tin mà là để gỡ cái thế bí khi chiếm được kinh đô mà không chiếm được triều đình.
De Courcy vẫn cho Nguyễn Văn Tường giữ chức cũ nhưng bị kiểm soát chặt chẽ bởi một toán lính Pháp do đại úy Schmitz chỉ huy, và sau đó thay bằng phó công sứ Hamelin. Nguyễn Văn Tường đã làm việc trong điều kiện ấy và không ít những việc làm được tiến hành trong sức ép của quân Pháp.
Ngày hôm sau, 6 / 7 / 1885, De Courcy và Nguyễn Văn Tường đã hội đồng yết thị cho hai nước vẫn hòa hảo như cũ nhằm
“lên án Tôn Thất Thuyết và kêu gọi lực lượng kháng chiến đưa vua Hàm Nghi về tiếp tục trị vì dưới sự bảo hộ của nước Pháp như trước” [15, 106]. Việc này người Pháp đã ghi nhận:
“có ông Tường ký tên phó thự để làm nao núng sự tấn công của ông Thuyết, mời vua và hoàng hậu trở về hoàng cung” [16, 77].
Tiếp đó, dưới áp lực của quân Pháp, Nguyễn Văn Tường tiếp tục ra thông báo rất bất lợi,
“cho phép một thời hạn 12 ngày để cho những người đi theo Tôn Thất Thuyết trở về đầu hàng. Và một tuyên bố giải tán các đội quân chính quy của An Nam, và bắt phải hạ vũ khí ở các thị trấn của các tỉnh và được đưa về Huế dưới sự điều khiển và trách nhiệm của những người quan chức tỉnh” [16, 77].
Việc người Pháp chiếm kinh thành đã gây nên một sự xáo trộn rất lớn, nhân dân nhốn nháo, ngờ sợ và mất phương hướng.
“Riêng một hạt phủ Thừa Thiên vì có Văn Tường ở đó giảng hòa và hay hiệu lệnh ngăn cấm, hơi nhờ được yên, còn dư các hạt Nam, Bắc thì bọn côn đồ tụ họp cướp bóc nổi lên, lương – giáo ngày thường thù nhau, sinh ra tàn sát lẫn nhau, nơi nào cũng có. Đô thống Pháp lại yêu cầu Văn Tường chiêu tập quan lại thôi bắt binh dân hiểu báo cho lương giáo Nam, Bắc cùng yên và cấm xảy ra trộm cướp, hạn đến tháng 2 [2 tháng - bt.] là thanh thiếp” [61, 223].
Một việc quan trọng đối với Nguyễn Văn Tường là phải tìm cách đưa Tam cung và Hàm Nghi về lại Huế theo yêu cầu của Pháp. Ngay khi vua vừa ra đến Quảng Trị, Nguyễn Văn Tường đã cử Phạm Hữu Dụng thân hành ra xin rước vua về nhưng bị Tôn Thất Thuyết ngăn lại, không gặp được vua.
“Trước mặt vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết sai một gia nhân về Huế để đốt nhà riêng của Nguyễn Văn Tường, ở trong kinh thành, gần cửa Đông Ba. Nhà này bị đốt ngày 24 / 7 /1885” [27, 350]. Việc nhà riêng của Nguyễn Văn Tường bị đốt có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng khi chúng ta không tìm được mối liên hệ của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường thì việc đốt nhà theo chúng tôi là để cảnh cáo mhiều hơn là che giấu hay củng cố sự
“phản trắc” (!). [Thật ra, ngôi nhà của Nguyễn Văn Tường bị đốt phá bởi bọn Pháp và bọn tả đạo trong Thiên Chúa giáo vốn rất thù hận ông, rồi chính chúng tung tin là do Tôn Thất Thuyết sai người về đốt, để li gián hai vị phụ chính, đang phân công cho nhau là "người
đàm, kẻ
đánh" - bt.].
Sau khi được tin báo của Trương Quang Đản, Nguyễn Văn Tường đã viết thư ngay cho Tam Cung mời Tam cung về Huế cho yên lòng dân, thư có đoạn:
“Nhưng thần cũng không tưởng rằng Tôn Thất Thuyết lại lừa dối thần như thế, đến Tam cung tuối già nhà vua còn trẻ, lăn lộn gió bụi chịu làm sao nổi. Huống chi kinh thành miếu điện, lịch đại sơn lăng một buổi bỏ đi như không, lòng thần tử chịu sao được sự chua xót ấy, nên thần phải tuân theo sắc văn đem thân lăn lộn ở đây cùng với quan Pháp đi lại vì bản tâm của thần nguyện cùng với xã tắc mất còn... Cứ theo lời phúc thư thì đô thống đại thần rất mong rước vua về, cũng mong giữ gìn cung điện như cũ... Cúi xin mệnh giá hồi loan để yên lòng dân” [61, 224]. Và đề nghị ấy được Tam cung chấp nhận. Nguyễn Văn Tường phối hợp với Trương Quang Đản đưa Tam Cung trở lại Huế. Thực chất Tam cung và một số quan lại tùy tùng không muốn lên Tân Sở để tiếp tục kháng chiến. Vì thế Tôn Thất Thuyết đã để cho những người này trở lại, còn mình và các phụ tá đắc lực thì đưa Hàm Nghi lên Tân Sở.
Để đưa Hàm Nghi về lại Huế, Nguyễn Văn Tường đã tiếp thêm quân cho Trương Quang Đản đuổi theo đến tận biên giới Việt - Lào. Ngày nhâm ngọ, [20-6 Ất dậu, Hàm Nghi nguyên niên - bt.] (31 / 7 / 1885), gặp được ở sách Bờ Cạn nhưng không dám bắn súng, vì thế bị quân của Trần Xuân Soạn và Phạm Thận Duật đẩy lui. Trương Quang Đản lại xin thêm các nhân vật: Nguyễn Thành Ý, Tôn Thất Phan, Võ Khoa sung làm khâm sai, chia ra các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa hợp cùng quân với nhiều của nhiều phái [viên - bt.] chia đường dò đón để rước xe vua trở về [61, 234].
Tuy nhiên những hành động đó đều bất lực, không có kết quả mà lúc ấy phong trào Cần vương lại nổi lên khắp nơi theo lời kêu gọi Cần vương. Điều đó gây cho người Pháp nhiều khó khăn. Vì thế, chúng đã đi đến một giải pháp mới. Một mặt tung tin Vua Hàm Nghi đã chết, một mặt tìm người thay thế. Thông qua vài sự hội ý, một giải pháp sớm được nhất trí là đưa Chánh Mông (Đồng Khánh) lên ngôi. Điều đó ngẫu nhiên loại bỏ vai trò của Nguyễn Văn Tường hay đúng hơn là De Courcy đã không cần đến Nguyễn Văn Tường và hắn đã bắt Nguyễn Văn Tường đi đày vào ngày 6 / 9 / 1885. Một sự kết thúc trên chính trường mà có lẽ khi ở lại Huế ông không nghĩ đến, bởi chỉ một niềm tin vào sự thương thuyết.
Như vậy là trước áp lực của người pháp, Nguyễn Văn Tường đã phải thi hành những biện pháp để đưa Tam cung trở về, ổn định tình hình sau vụ biến. Duy việc đưa Hàm Nghi trở lại là không thành. Dù muốn hay không thì những hành động đó đã gây nhiều bất lợi cho phái chủ chiến và làm phân hóa nhân tâm một cách đáng kể, nhất là khi việc chuẩn bị cho cuộc kháng Pháp đã rộng khắp trong toàn quốc.
2.5.2. Những ngày tháng cuối đời (5 / 9 / 1885 – 30 / 7 / 1886)Ngày 6 / 9 / 1885, đúng sau hai tháng trở lại Huế, Nguyễn Văn Tường bị bắt lên tàu vào Gia Định, sau đó đày ra Côn đảo rồi đày sang Tahiti cùng với hai nhân vật kháng chiến là Tôn Thất Đính và Phạm Thận Duật.
Theo de Mariaux thì ba vị quan lớn này được chở ra Côn đảo bằng tuần dương hạm Clocheterie kèm theo một bức mật hàm [De Courcy - bt.] gửi cho chúa đảo Caffort với lời dặn:
“Tầm quan trọng chính trị của những tù nhân này đòi hỏi họ phải được giám sát hết sức nghiêm ngặt với bất cứ giá nào” [82, 85]. Còn De Champeaux thì khẳng định:
“Văn Tường đã chống cự nước ấy nhiều năm; từ khi cùng Tôn Thất Thuyết sung làm phụ chính, chỉn [= vẫn - bt.] lại đồng suất quan quân nổi dậy công kích quan binh nước ấy, và Văn Tường do đô thống ấy xin [chính phủ Pháp – bt.] cho 2 tháng để lo liệu việc nước cùng Bắc Kì đều được lặng yên vô sự. Đến ngày 27 tháng ấy hết hạn mà các tỉnh tả kì về phía Nam có nhiều nơi nổi quân chém giết dân giáo. Đến đây đô thống định án, ưng kết tội lưu” [61, 247].
Như vậy là “tội trạng” của Nguyễn Văn Tường đã được thực dân Pháp vạch rõ. Chúng biết rất rõ con người cũng như động cơ ở lại của Nguyễn Văn Tường, trong hoàn cảnh bị kiểm soát vẫn cố sức chống Pháp. Puginier đã từng viết:
“Hàm Nghi đi theo Thuyết, còn phụ chánh Tường ở lại, vẫn giữ nguyên chức tước, và sau một thời gian trá hàng lại tiếp tục có những hành động đối kháng. Chính theo lệnh của y mà khoảng 30.000 giáo dân đã bị hại trong vòng 2 tháng và hơn 1.000 người khác cũng chịu chung số phận do các quan lại thi hành lệnh trên” [25, 14]. Nhưng lí do quan trọng nhất đối với quân Pháp lúc này là lập một chính quyền bù nhìn tận tụy với chính quyền “bảo hộ”, chí ít là không chống đối hoặc có thể gây lo ngại như Nguyễn Văn Tường.
Tới Côn Đảo được 6 tháng, Nguyễn Văn Tường lại được chuyển qua an trí tại Tahiti (tháng 2 / 1886) và ông đã sống những tháng ngày cuối cùng ở đó. Theo một bức thư của Hermel thì Nguyễn Văn Tường
“chỉ ở đây 6 tháng; ông qua đây gần như không được biết, không gây tiếng vang, ông chỉ đi dạo mát gần nhà, luôn có 7-8 người tùy tùng bao quanh” [dt., 39, 108]. Đào Trinh Nhất dẫn ra một tư liệu khác:
“Vừa đến nơi Tường liền đâm ra khật khùng vơ vẩn, hình như có ý hối hận không muốn trông thấy mặt ai” [44, 57]. Cho dù bị đày, là một tội nhân [của Pháp – bt.], nhưng Nguyễn Văn Tường vẫn luôn được đối xử như một ông hoàng An Nam;
“nước Pháp đã rất rộng lượng, đã trợ cấp cho ông một khoản tiền 30.000 franç cho đến khi ông mất” [16, 80]. Có thể nói Nguyễn Văn Tường đã sống những ngày cuối cùng trong nỗi cô đơn của một đại quan xa xứ với bao kỳ vọng còn dang dở. Ông đã chết ở đó vào lúc 04 g 30 ngày 30 / 7 / 1886 do bị bệnh ung thư [? – bt.] ở cổ .
“Di hài được đặt trong một cái hòm 4 tấm, quàn tạm thời trong một hầm mộ để chờ người chuyển về Huế, tàu Le Bourayne, thuyền trưởng là Willemsens” [dt., 39, 108]. Tới ngày 9 / 12 / 1886, toàn quyền các cơ sở Pháp ở châu Đại dương đã quyết định cho phép khai quật di hài của Nguyễn Văn Tường để chuyển về Huế. Không có một tư liệu đáng tin cậy nào nói quan tài của Nguyễn Văn Tường được Tôn Thất Đính đưa về mà theo chúng tôi, đây là một nghi lễ mang tính chất quốc gia [? – bt.] đối với một vị quan đầu triều.
Tư liệu đã cho biết tên chiếc tàu và thuyền trưởng đưa quan tài về Huế. Có chăng thì TônThất Đính đã cùng về trong chuyến tàu ấy? Nhưng có một điều có thể tin cậy được, theo lời kể của các hậu duệ Nguyễn Văn Tường thì sau hai năm an táng tại quê hương (làng An Cư), con cháu quyết định khai quật để chuyển qua quan tài khác vì không chấp nhận ông nằm trong quan tài người Pháp, hơn nữa cũng là để nhận mặt, thì thấy cách khâm liệm hoàn toàn theo phong tục Việt Nam. Điều này có thể nghĩ đến việc chính Tôn Thất Đính đã khâm liệm cho Nguyễn Văn Tường.
Đào Trinh Nhất cho rằng
“khi quan tài về đến cửa Thuận An, vua Thành Thái nói với các quan rằng: “Nên đem gậy sắt mà đánh lên quan tài đứa phản phúc ấy”” [44, 57], nhưng điều này có thể không phải, vì từ 9 / 12 / 1886 quan tài đã được khai quật để chuyển về Huế trong lúc đó tháng 1 / 1889 vua Thành Thái đã lên ngôi. Việc Thành Thái cho người đánh vào quan tài Nguyễn Văn Tường không được chép trong
“Thực lục”, nhưng có một số ý kiến khẳng định là có thật, rất có thể là vào dịp con cháu khai quật như đã nói ở trên.
Lăng Nguyễn Văn Tường được xây ở làng An Cư, từ cuối thế kỷ XIX đến nay về cơ bản vẫn không thay đổi. Nằm chung với khu mộ của làng, nơi ấy là cõi an nghỉ của một con người mà những lời bàn về ông vẫn chưa có hồi kết thúc.
Chương 3
NHẬN DIỆN NGUYỄN VĂN TƯỜNG
TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC THẾ KỶ XIX
3.1. Nguyễn Văn Tường trước ngày 5/7/1885Quãng đời ở chốn quan trường của Nguyễn Văn Tường kéo dài vừa đủ để chứng kiến bước suy yếu của triều đình nhà Nguyễn cũng như sự bất lực của nó trước cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Trong bối cảnh đầy biến động và phức tạp ấy, Nguễn Văn Tường là một trong những người có ảnh hưởng và để lại những dấu ấn lớn lao nhất thời bấy giờ.
Từ một cậu học trò mơ hồ về họ mạc [? – bt.] bị truất bỏ kết quả thi, nhưng vẫn dùi mài kinh sử để đến năm 1850 lại trúng cử nhân, bước chân vào chốn quan trường đầy trắc trở. Trải qua nhiều lần thăng, giáng, thưởng, phạt nhưng vua Tự Đức vẫn luôn xem trọng tài năng, trí tuệ và sự am hiểu thời cuộc của Nguyễn Văn Tường, vì thế ông luôn được trọng dụng. Từ một vị quan ở huyện, phủ, qua những lăn lộn nơi chiến trường và chính trường, để đến năm 1883 trở thành phụ chính đại thần làm nghiêng đảo triều đình và là mối lo ngại cho thực dân Pháp.
Trải qua những chức trách, nhiệm vụ, Nguyễn Văn Tường đều để hết tâm sức mong hoàn thành tốt công việc được giao, canh cánh một nỗi lòng yêu nước thương dân. Qua công việc, Nguyễn Văn Tường cũng thể hiện một tài năng ứng xử tuyệt vời trước các vấn đề xã hội, như vấn đê đối xử với nhân dân các dân tộc thiểu số, vùng cao, dân nghèo, đối với tôn giáo, với chiến tranh biên giới, thương thuyết bài trừ giặc Khách cũng như khéo léo lấy lại 4 tỉnh Bắc Kỳ đã bị Pháp xâm chiếm. Mặc dù chính Nguyễn Văn Tường là người thay mặt triều đình Huế ký hiệp ươc 1874 (một hiệp ước gây [ít - bt.]phản ứng nhất của nhân dân trong số các hiệp ước Triều Nguyến kí với Pháp). Thế nhưng chính Nguyễn Văn Tường đã tìm cách “xúi giục” [sic – bt.] Tự Đức điều đình không thi hành hiệp ước hoặc chỉ miễn cưỡng thi hành.
Nhân vật
“ảnh hưởng nhất triều đình Huế’’ này [đã cùng Tôn Thất Thuyết - bt.] làm nên sự kiện
“tứ nguyệt tam vương”, loại trừ các phần tử chủ hòa để thống nhất lực lượng kháng Pháp trong toàn quốc mà đối với những người xem trọng đạo lý phong kiến thì họ coi đó là hành động
“quên lời sách xưa”,
“chẳng giữ đạo trung”. Nhưng đó lại là hành động vì dân vì nước đáng được tôn vinh.
Đối với người Pháp, Nguyễn Văn Tường đã thể hiện một thái độ rõ ràng, thể hiện qua sớ tấu và thơ văn của ông.
-
“Mọi rợ [= giặc – bt.] là nỗi lo, từ xưa đã có, nhưng chưa mọi rợ nào như người Phú”.(Tấu 23 / 3 // 1868) [47, 212]
-
“Người Phú vô cớ đến đây xâm phạm, lại thi hành nhiều chính sách tàn ngược”.(Tấu 6 / 8 // 1874 ) [47, 212]
-
“Bọn phương Tây tính tham lam, chấp theo điều lợi, ấy là tìm được rồi lại sợ mất đi, thật là khó lấy nghĩa lý, trí thuật làm lay chuyển nó nghe theo”.(Tấu 8 // 1873) [47, 212]
Từ suy nghĩ đó Nguyễn Văn Tường đi đến lập trường chống Pháp. Chúng ta hãy xem ông nói về nó:
“Người xưa nói rằng, chiến rồi sau đó mới thủ được, thủ rồi sau đó mới có thể hòa được, cũng là cái thế tương đương vậy. Hòa để mưu giữ, giữ để mưu chiến, mới hợp cơ nghi, mà may mắn mới không sai lầm... Cái hòa ngày nay thực là ngược với lời bàn của dân chúng” [dt., 22, 99]
Nguyễn Văn Tường lại trình bày về biện pháp chấn hưng, làm thế nào để giữ đất từ bên trong:
“Đánh là việc đã qua không dám nói lại.
Hòa thì nay có gì để trông cậy...?
Vả, không lo bọn giặc ngang ngược, chỉ lo ta không thể tự cường. Không lo bọn giặc tham tàn, chỉ lo ta không tự giữ. Kinh sư là đất căn bản, đồn lũy đã vững chăng? Chí quân lòng dân đã được khích lệ chăng? Đường thủy đường bộ đã vững khắp chăng? Tỉnh Bình Thuận đương xung yếu, các tỉnh khác cũng có hải phận. Quân lương binh lính làm thế nào cho sinh và đủ, hào mục sĩ dân làm thế nào cho chuyên luyện? Nơi nào hiểm yếu cần phải giữ, phép phòng thủ nào tất vững?” [47, 212]
Nguyễn Văn Tường không chỉ nói mà ông cũng thường xuyên có những hành động chống đối thực dân Pháp. Ông từng được xem là
“kẻ thù lớn nhất” mà qua sự trình bày ở phần trước chúng ta đã thấy rõ :
- Chống Pháp trên mặt trận ngoại giao, quan hệ.
- Chuẩn bị lực lượng để kháng Pháp lâu dài.
[Ông - bt.] không thể tránh khỏi những hiềm khích đương thời, nhưng chúng ta có thể dễ dàng nhất trí rằng cho đến trước ngày 5 / 7 / 1885 Nguyễn Văn Tường là một người tài năng và có lòng yêu nước nhiệt thành sâu sắc. Những đóng góp của ông trong giai đoạn lịch sử này trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị, nhất là thái độ chống Pháp cần được lịch sử ghi nhận hơn bất cứ một đại quan nào đương thời.
3.2. Nguyễn Văn Tường từ sau ngày kinh đô thất thủ 5 / 7 / 1885 - Ngàn năm công – tội.Người ta cứ đặt câu hỏi điều kiện: Nếu “đại sự” mà thành công thì lịch sử sẽ như thế nào! Nhưng lịch sử đã diễn ra và Nguyễn Văn Tường đã ở lại Huế sau cái ngày định mệnh đó, và đó chính là cái mốc sự kiện để đánh giá hai quãng thời gian trong cuộc đời Nguyễn Văn Tường.
Nguyễn Văn Tường ở lại theo lời Từ Dũ để thương thuyết hay ông ở lại vì động cơ cá nhân thì đó không phải là mấu chốt của vấn đề, mà cái quan trọng chính là việc làm của ông trong hai tháng ở Huế nhằm mục đích gì? Có lợi và có hại gì cho đất nước, cho dân tộc, cho phong trào kháng chiến của nhân dân hay không?
Xem xét những hoạt động của ông có thể cho thấy rằng
sau khi ở lại Nguyễn Văn Tường vẫn nuôi ý định thương thuyết với Pháp, có hoạt động kích động [tác động - bt.] sự nổi dậy của Văn thân chống Pháp, giết đạo [bọn tả đạo trong giáo dân – bt.]. Cố nhiên cũng là để chờ đợi một thời cơ. Từ Quảng Trị dụ của Hàm Nghi gửi về, ủy thác:
“Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta quanh quẩn, còn ngươi là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm; kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản... [Khanh nên – LTC.] cân nhắc kĩ về lợi hại, hết lòng thỏa hiệp, phàm những khoản gì bách thiết, chung nhau bàn đổi... Nếu không như thế thì miếu xã lăng tẩm và các vương công không kịp đi theo ấy thì hết thảy ủy cho khanh” [61, 226]. Và như thế với tư cách là đại thần và những uy tín của mình, trong hai tháng Nguyễn Văn Tường đã làm một số việc mà dụ của vua Hàm Nghi ủy thác: Ổn định tình hình an ninh trật tự ở kinh thành, tổ chức lại triều chính, trông coi tôn miếu, xã tắc, lăng tẩm và Tam cung. Ngày 7 [tháng 6 Ất dậu (1885) -bt.], bản
"Dụ các người trong họ" đã ghi nhận những việc làm của Nguyễn Văn Tường:
“Nay đã có phụ chính đại thần là Nguyễn khanh ở lại giảng nói, che chở nhiều việc, hơi được yên ổn; huân thần tâm sự như thế, cáng đáng như thế, thực là đau khổ quá chừng... Nhân vật nước ta những người trung nghĩa từ xưa tưởng không hơn được. Trẫm cũng dụ cho đại thần ấy hết lòng bàn tính công việc, tâu chờ quyết định” [61, 227]. Tuy nhiên xét về cơ bản thì những việc làm trên cũng phần nào phù hợp với yêu cầu của chính phủ Pháp thể hiện qua bức điện từ Paris:
- Hoàng đế Đại Nam tại vị như trước.
- Quốc gia Đại Nam lập y như cũ.
- Hoàng thân và công chúa nên tựu về kinh. Bắt Tôn Thất Thuyết nộp cho Hoàng đế Đại Nam [40, 41].
Như vậy, tại sao lại có sự “gặp gỡ” này? Theo chúng tôi, xét về phía người Pháp thì đó là những giải pháp thiết thực nhằm ổn định tình hình, loại bỏ phe chống đối (cụ thể là Tôn Thất Thuyết). Từ đó dễ dàng thiết lập ách đô hộ lên toàn đất nước. Về phía triều đình mà nói, lúc đó vua Hàm Nghi còn nhỏ tuổi chưa qua bước đường bôn tẩu gian truân nên chưa hiểu được ý nghĩa của việc kháng chiến và luôn mong trở lại Huế. Những “căn dặn” với Nguyễn Văn Tường cũng vì mục đích đó. [Thật ra, hai bản dụ đều do Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi viết; riêng "Dụ gửi Nguyễn Văn Tường" được gửi về cùng một ngày với "Dụ Cần vương" chính thức, duy nhất - bt.]. Vậy là những việc mà Nguyễn Văn Tường đã làm vô tình đã đạt được cùng một lúc ba chủ đích: Đối với vua (lăng tẩm, cung điện, phò Tam cung). Đối với đất nước và nhân dân (ổn định, chống cướp bóc...). Và đó cũng là cái có lợi cho thực dân Pháp.
Trong hoàn cảnh một mình trở lại phải chăng là một sự mạo hiểm “tay không bắt giặc” (!). Để rồi hai tháng bị quản thúc ở Nha Thương bạc với một toán lính Pháp canh chừng cẩn mật, và để “trả dần” những “điều kiện” đã hứa với De Courcy, Nguyễn Văn Tường đã tiến hành một số hành động làm tổn hại đến dân tộc, đến phong trào kháng Pháp của nhân dân. Ngay khi ông quyết định ở lại Huế thì nội bộ đã thể hiện một sự chia rẽ :
“Quan Hầu quan Hữu phân vân
Bách quan văn vũ giá thần không ai
Kéo lên Thiên Mụ chợ Mai
Ngó về cung điện, lâu đài suy vi” [31, 81]
Sau này sự phân hóa lại càng rõ rệt, lên đến Tân Sở thì lực lượng nòng cốt chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay, chính là minh chứng cho lực lượng chủ chiến đã bị dao động khi một vị quan đầu triều có nhiều ảnh hưởng bỗng dưng ở lại Huế. Xét cho cùng thì nhân dân nhìn vào thái độ của triều đình để kháng chiến chứ không phải là nhìn vào Từ Dũ thái hoàng thái hậu. Bởi thế mới có một phong trào yêu nước kháng Pháp tụ lại và xuất hiện như một lực lượng quốc gia.
“Sự hiển diện của vua Hàm Nghi và những người đồng đảng quyết liệt trú đóng trên vùng núi Quảng Bình mà cả miền cao của Annam trong nhiều năm là cái nôi của nổi dậy và chống đối lại người Pháp’’ [16, 85]. Y .Tsuboi đã nhận định:
“Một sự trớ trêu hay là chân lí lịch sử?” [71, 353]. Vậy thì ở đây giữa thái hoàng thái hậu và vua Hàm Nghi, thần dân đã biết chọn ai để đi theo, vì mục đích dân tộc (!).
Nguyễn Văn Tường cũng vì mục đích dân tộc nhưng ông đã đi tìm một giải pháp khác, đó là thương thuyết, vì đây là cái lợi thế của ông. Nhưng ông sẽ dựa vào đâu để thực hiện mục đích đó? Để rồi de Courcy đã lợi dụng ông mà thi hành mục tiêu bình định. Không thể nói là thành công nhưng những hành vi hợp tác với Pháp của Nguyễn Văn Tường là không thể bào chữa được.
Vậy thì tại sao Nguyễn Văn Tường vẫn bị đi đày? Ông là kẻ bán nước, làm tay sai cho Pháp hay ông là người chủ chiến? Các tác giả Trần Viết Ngạc, Võ Xuân Đàn lấy sự kiện Nguyễn Văn Tường bị đày chung với Phạm Thận Duật, Tôn Thất Đính - đều là những nhân vật kháng chiến - để chứng minh Nguyễn Văn Tường thuộc phe kháng chiến. Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy, như thế vẫn chưa thỏa đáng và thuyết phục bởi trong một chuyến tàu chở tội nhân người ta không phân biệt là tù chính trị, trộm cắp, giết người hay chống Pháp. Người Pháp cũng đã mâu thuẫn trong nhận thức về phụ chính Nguyễn Văn Tường:
“Một sự mâu thuẫn sâu xa chia rẽ tướng De Courcy và ông De Champeaux, nhất là đối với vấn đề ông phụ chánh Tường. Vị tướng thì quả quyết là ông Tường luôn luôn liên lạc với ông Thuyết và lại nhúng tay vào mọi cuộc âm mưu lật đổ... Ông De Champeaux lại cho rằng ảnh hưởng của ông Tường là rất lớn và cần thiết cho sự thiết lập nền bảo hộ và cố gắng bằng mọi cách để giữ ông ở lại Huế” [16, 80]. Xem qua hai ý kiến trên tưởng là mâu thuẫn nhưng xét kĩ thì hoàn toàn phù hợp với tâm địa thục dân, đó là De Champeaux muốn lợi dụng uy tín của Nguyễn Văn Tường để thực hiện âm mưu chính trị, tất nhiên là trong sự kìm kẹp như thời gian hai tháng đã qua; còn De Courcy chuyên trách về quân sự, ông phải lo đến một nhân vật mà chí ít cũng từng chống Pháp trong những năm qua và bấy giờ hãy còn để lại những nghi ngại.
Ở đây cũng phải nói thêm rằng,
hai tháng ở lại Huế Nguyễn Văn Tường không màng danh lợi, ông không được cái gì ngoài việc bị đày và chết ở xứ người. Vậy thì nên kết lại bản chất vấn đề này là gì? Cứ như cách suy luận thông thường thì khó đánh giá khách quan, bởi đánh giá một nhân vật nhiều lúc còn đòi hỏi một sự nhạy cảm ngoài những tài liệu có được. Nếu chúng ta nghiêng về công hoặc tội thì e rằng hơi vội vàng, thiếu khách quan, khoa học.
“Phải chăng chúng ta nên nhìn nhận hành động của Nguyễn Văn Tường sau sự biến kinh thành Huế là biểu hiện của sự mơ hồ và bế tắc trong đường hướng giữ nước của giai cấp phong kiến Việt Nam nửa sau thế kỉ XIX?” [65, 108]. Và lựa chọn giải pháp thương thuyết hòng mong làm nên đại sự trong lúc không có một cơ sở một chỗ dựa [quân sự? - bt.] là một sự ấu trĩ và sai lầm.
C. PHẦN KẾT LUẬNTìm hiểu, đánh giá một nhân vật lịch sử là việc làm không đơn giản. Bởi tìm hiểu một nhân vật thực chất chúng ta đang tìm hiểu một giai đoạn lịch sử mà nhân vật ấy sống và hoạt động. Đúng như Mác từng viết:
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [70, 52]. Vì thế, nghiên cứu, đánh giá Nguyễn Văn Tường cũng phải đặt trong bối cảnh lịch sử nửa cuối thế kỉ XIX.
Nguyễn Văn Tường làm quan trong thời kỳ “mấu chốt” của cuộc chiến tranh chống thực đân Pháp xâm lược. Vì thế, chốn quan trường của ông dù muốn hay không cũng phải gắn liền với các vấn đề của dân tộc, nhất là khi ông trở thành “người hùng" trên mặt trận ngoại giao sau thành công của cuộc thương thuyết thu hồi bốn tỉnh Bắc Kỳ năm 1873 [và đầu năm 1874 - bt.].
Qua sự trình bày trong luận văn, trên cơ sở những tài liệu có được, chúng tôi đã lần lượt giới thiệu theo tiến trình thời gian, những giai đoạn, thời kỳ, những đóng góp, cái được và chưa được trong cuộc đời Nguyễn Văn Tường đối với dân tộc. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn chốt lại những cái chủ yếu trong con người Nguyễn Văn Tường:
Nguyễn Văn Tường là người tài năng, tận tụy với vua. Những nhiệm vụ, công việc được giao ông đều nỗ lực hết mình. Chính vì thế mà vua Tự Đức luôn tin dùng ông vào các công việc quan trọng.
Từ những nhận thức đúng đắn về quân Pháp xâm lược, Nguyễn Văn Tường đã đua ra những giải pháp nhằm chấn hưng đất nước từ bên trong rất thiết thực, cụ thể, như tích trữ binh lương, tự cường, tự giữ... Bản thân những hành động chống Pháp của ông trên tất cả những lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao, đủ minh chứng cho ông
ngay từ những tiếp xúc đầu tiên đã đứng về lập trường của phái chủ chiến.
Trong công việc hàng ngày Nguyễn Văn Tường
là người thanh liêm cương trực. Tài liệu còn ghi lại trong thời gian làm quan dưới thời Tự Đức, Nguyễn Văn Tường không tiến cử một người nào. Tự Đức dụ
“Nguyễn Văn Tường từ trước đến giờ chưa cử người nào, ý hắn còn cẩn thận việc cử chăng?” [60, 221].
Mùa [đông tháng 11 Ất hợi, TĐ. 28 - bt.] (1875), vua cấp thêm cho tham biện Thương bạc Nguyễn Hữu Độ 200 quan tiền, khi ấy Nguyễn Văn Tường tâu nói:
“Thần sung làm việc ở Viện Bạc, ngoài số tiền lương thường, hàng năm được thêm tiền bổng 600 quan (Viện thêm 300 quan, Thương Bạc thêm 300 quan). Hữu Độ chưa dự hàng đại thần nhưng việc công cùng giúp đỡ lẫn nhau, đều có san sẻ khó nhọc. Thần xin vâng lãnh tiền viện 300 quan, còn tiền bổng 300 quan Thương Bạc thêm cho, xin chờ chỉ chuẩn cho chia cấp cho Tham Biện Hữu Độ” [58, 258]. Vua không nghe.
Nguyễn Văn Tường là người dám đấu tranh, nói thẳng và sự thật, sớ ngày 27 / 10 / 1874 là một ví dụ:
“Kính từ khi hoàng thượng nối tiếp cơ đồ lớn lao, vỗ yên vận sáng, tuy trì doanh bảo thái, chưa từng không lấy sự gắng gỏi làm lo toan, nhưng quá nửa ngày thì trời xế, ngược với sáng là tối là lẽ tuần hoàn xưa nay thay đổi, cho nên trong thì biến loạn anh em, ngoài thì cái họa của mọi rợ [Tây dương – bt.], Nam kỳ đất cũ thì trầm luân, Bắc kì thì giặc cướp [chủ yếu là “giặc Cờ” –bt.] liền năm” [73, 39].
Ông chỉ trích từ thực trạng quan lại :
“Kẻ gặp việc thì lo khéo tránh, ở quan mà vui việc riêng, đã được trích ra trừng trị răn dạy để sửa chữa cũng ít vậy, thậm chí có kẻ tùy việc đòi hối lộ, như là chợ búa, thế mà lại không biết liêm sỉ. Than ôi lòng người sao một phen đến thế!” [75, 39].
Nguyễn Văn Tường tỏ ra sâu sắc trong nhận xét về một số quan đương thời: Phạm Phú Thứ, Phạm Đình Bình,Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương... Nhận xét nhưng ông rất cẩn trọng:
“Việc nghe thấy không phải là bằng cớ xác đáng. Con người tùy môi trường mà đổi tiết, tùy chỗ dùng mà thấy sở trường, thực khó phẩm bình” [47, 215].
Đánh giá về Nguyễn Văn Tường, trước tiên chúng ta hãy xem những người đương thời có dịp làm việc với ông nhận xét:
Phạm Phú Thứ đánh giá:
“Giang sơn xuất vĩ nhân”. Còn Tôn Thất Thuyết từng có lời khen
“Bậc nho tướng, đại trí, thông tuệ, thao lược” [18, 114].
Vua Tự Đức đã nhiều lần khen ngợi Nguyễn Văn Tường về tài ứng đối, thương thuyết. Mùa [đông, Giáp tuất, TĐ. 27 - bt.] (1874), Tự Đức đánh giá:
“Chỉ Nguyễn Văn Tường làm việc ấy (Nha Thương bạc) từ trước đến nay vốn đã am hiểu thông thạo, đã không lãnh chức Thương chính cũng lãnh chức Thương bạc để việc giao thiệp nước ngoài được phát triển mưu mô" [57, 358].
Tự Đức từng khen: Và ban tặng hai câu
“Nhân thần ngộ thánh [? – bt.] thời, Nam lục tỉnh công cán, Bắc lục tỉnh công cán”, “Thiên tử mậu tước thưởng, tiền tam đại vinh quang, hậu tam đại vinh quang”.
(Nghĩa là: Bề tôi có đức nhân gặp được thánh Thiên Tử nên đã ra tài công cán hết 6 tỉnh Nam kỳ đến 6 tỉnh Bắc kỳ. Vua ban thưởng tước lộc cho cả ba đời trước và ba đời sau, hết sức vinh quang).
Những nhận xét đánh giá về Nguyễn Văn Tường từ trước đến nay như chúng tôi đã nêu ở phần mở đầu bất luận là đúng hay sai, khoa học hay phản khoa học, chúng tôi không dám mạo muội bàn luận. Thiết nghĩ, lịch sử luôn công bằng, vì thế, những ý kiến xác đáng sẽ mãi mãi có giá trị. Ngược lại, ý kiến sẽ bị đào thải nếu nó không đúng với sự thật của lịch sử đã diễn ra. Ở đây cũng xin được nói thêm rằng, những ý kiến đánh giá thường bị “đổ dồn” vào giai đoạn sau, như thế là không thấy được tính biện chứng và thiếu khách quan. Chúng ta thử lấy ví dụ về những hành động “tứ nguyệt tam vương”, việc chuẩn bị lực lượng kháng Pháp... Trước vụ biến kinh thành Huế 5 / 7 / 1885 rõ ràng là hành động vì dân vì nước, nhưng công lao lại thường được quy về cho Tôn Thất Thuyết nhiều hơn là Nguyễn Văn Tường chỉ vì một sai lầm sau ngày 5 / 7 ấy. Dù khen hay chê thì chúng ta vẫn thấy một cái gì đó không thỏa đáng và đó là những điều mà con người cần phải suy ngẫm! Nó cũng hữu dụng cho sự hiểu biết cần có của mỗi con người.
Nguyễn Văn Tường tự biết về mình. Những cái mà ông làm được, những cái chưa làm được và cả những sai lầm cuối đời để lại những lời thị phi bàn luận. Nhưng ông không tự biện bạch cho mình, mà lại phó mặc cho đời luận bàn công tội. Những ngày cuối cùng trên đảo Tahiti ông đã viết những câu thơ thể hiện một nỗi niềm riêng mà chung ấy.
“Tam thập niên lai phí kỷ kinh
Vô đoan dạ bán bách sầu sinh
Kỳ khai [- bt.] tam sắc phong lôi biến
Già thính [- bt.] song xuy kê khuyển kinh
Sơn kính vạn trùng [- bt.] thương thúy liễn [- bt.]
Thần tâm nhất dạng luyến đơn đình
Thị phi nhiên phó thiên thu hậu
Xã tắc quân vương thục trọng khinh”.Tạm dịch :
“Ba chục năm thừa [trải - bt.] mấy phen
Mối sầu vô cớ gợi thâu đêm
Chó gà khiếp sợ kèn Tây thổi
Sấm sét vang lừng, cờ Pháp lên
Đường núi muôn trùng thương bóng chúa
Lòng tôi một dạng [- bt.] luyến đơn đình
Đúng sai phó mặc ngàn thu xét
Vua - nước bên mình nặng nhẹ hơn” [83].
Đã hơn một trăm năm, người đời sau “phán xét” về Nguyễn Văn Tường và có lẽ bao nhiêu năm sau nữa người đời còn luận bàn công - tội.
NIÊN BIỂU NGUYỄN VĂN TƯỜNGNguyễn văn Tường sinh ngày 22 / 8 / Giáp thân (14-10-1824) tại làng An Cư, xã Triệu Phước, Triệu Phong, Quảng Trị.
Năm 1842 (Thiệu Trị năm thứ 2), thi trúng tú tài trường Thừa Thiên, nhưng vì lấy tên là Nguyễn Phúc Tường nên bị vua Thiệu Trị xóa tên trong danh sách trúng cử, Nguyễn Văn Tường bị tội đồ 1 năm.
Năm 1850, được chuẩn cho di thi lại, Nguyễn Văn Tường đậu cử nhân khoa Canh tuất; bắt đầu bước chân vào chốn quan trường.
+ Làm huấn đạo (chức học quan) huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi.
+ Làm tri huyện Thành hóa (Cam Lộ, Hướng hóa, Đăkrông ngày nay). Có công trong việc chiêu tập những người dân tộc thiểu số, dân lưu tán trở về làm ăn, xin nộp thuế lệ. Vùng đất Thành Hóa ngày càng được mở mang, dân cư đông đúc, an ninh được đảm bảo, nông nghiệp thủy lợi được phát triển.
Năm 1858, được phong tán lý Bộ Binh.
Năm 1861, làm án sát tỉnh Quảng Nam
Năm 1863, tán lý Bộ Binh kiêm dinh điền sứ 2 tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị.
Đầu năm 1864, thăng phủ doãn phủ Thừa Thiên (viên quan đứng đầu bộ máy cai quản khu vực [kinh đô, gồm cả đạo Quảng Trị - bt.]).
+ Tháng 7 / 1864 [tháng 6 Giáp tí, TĐ. 17 - bt.], phủ doãn phủ Thừa Thiên kiêm chức khuyến nông sứ.
+ Đi thăm xét tình hình nhân dân ở huyện Thành hóa, xếp đặt công việc ở Trấn Lao, phụ trách nạo vét kênh Vĩnh Định.
Năm 1865, dâng sớ tâu vua 4 việc nhằm cứu đói cho dân chúng:
+ Xin cấp cho dân ở ven núi
+ Xin cấp cho dân đánh cá ở ven biển
+ Xin trả lại ruộng cầm cố cho dân cày cấy
+ Xin dời huyện lỵ Hương thủy đến chỗ thuận tiện
Được thưởng vì phát hiện vụ nổi dậy của công tử Hồng Tập.
Năm 1866, tháng 8 [Bính dần, TĐ. 19 - bt.], bị cách chức do không kiểm soát để Đoàn Hữu Trưng khởi nghĩa ở kinh thành Huế, cho gắng sức chuộc tội.
Cuối năm:
+ Làm bang biện Thành Hóa.
+ Khâm phái Sơn phòng Quảng Trị (được cấp ấn sơn phòng riêng).
Cuối năm 1867 [tháng 12 Đinh mão, TĐ. 20 - bt.], sung làm tùy biện [sứ bộ - bt.] cùng với Trần Tiễn Thành vào Gia Định để bàn bạc việc đất đai Nam kỳ.
Tháng 7 [Mậu thìn, TĐ. 21 - bt.] (1868), sung làm tán tương quân vụ ra Bắc kỳ cùng với Phạm [Nguyễn - bt.] Văn Hùng, Ông ích Khiêm, Đoàn Thọ... để tìm cách đánh dẹp giặc Khách ở biên giới.
Tháng 3 [Kỉ tị, TĐ. 22 - bt] (1869), sung làm tán tương quân thứ Tuyên Quang, thường xuyên qua lại thương thuyết với chính quyền nhà Thanh bàn việc đấnh dẹp.
Tháng [10 Canh ngọ, TĐ. 23 - bt.] (1870), thành Lạng Sơn thất thủ, bị giáng xuống hàng trước tác, cho gắng sức để chuộc tội.
Mùa xuân, [tháng 3 Tân mùi, TĐ. 24 - bt.] (1871), phối hợp với quân của Phạm Thận Duật cùng tiễu trừ giặc Khách đạt nhiều kết quả, được khai phục Quang lộc tự khanh, sung làm tán lý.
[Tháng 5 Quý dậu, TĐ. 26 - bt.] (1873), tán lý Nguyễn Văn Tường được mang hàm tham tri [tham gia sứ bộ vào Nam Kỳ - bt.], lại ra Hà Nội cùng với Philastre giải quyết vụ J. Dupuis gây hấn Bắc Kỳ. Thắng lợi [của ông là -bt.] Pháp giao trả 4 tỉnh thành đã chiếm và giải thể 12.000 quân tay sai.
Năm 1874:
+ Ngày 15 / 3, cùng với Lê Tuấn ký với tướng Pháp Dupré hiệp ước 22 điều, trong đó Pháp thừa nhận chủ quyền của triều đình Huế từ Bình Thuận trở ra Bắc.
+ Thăng thượng thư Bộ Hình, sung Cơ Mật viện đại thần, tước bá [với mỹ hiệu vua ban là Kì Vỹ - bt.].
+ Đảm nhiệm chức trách khâm sai ra Hà Tĩnh đối phó với cuôc khởi nghĩa của Văn thân.
+ 31 / 8 / 1874 (20-7 Giáp tuất, TĐ. 27 - bt.], ký với Pháp bản thương ước 29 điều.
Năm 1875 [Ất hợi, TĐ. 28 - bt.], đổi sang chức thượng thư Bộ Hộ, quản lý công việc Nha Thương bạc.
Năm 1878 [Mậu dần, TĐ. 31 - bt.], thăng hiệp biện đại học sĩ.
Năm 1881 [Tân tị, TĐ. 34 - bt.], do áp lực của De Champeaux, thôi giữ chức Thương bạc đại thần, vẫn giữ chức chức thượng thư Bộ Hộ, "thứ trưởng" Viện Cơ mật.
Năm 1883 [Quý mùi, TĐ. 36 - bt.]:
+ Ngày 19 / 7 / 1883 (16-6 Quý mùi - bt.], vua Tự Đức mất. Trước khi mất, cử Nguyễn Văn Tường cùng Trần Tiễn Thành, Tôn Thất Thuyết làm phụ chính đại thần [và đồng phụ chính đại thần – bt.].
+ Ngày 20 / 7, cùng với Tôn Thất Thuyết phế bỏ vua Dục Đức.
+ Ngày 30 / 7, cùng với Tôn Thất Thuyết lập Lãng quốc công lên ngôi, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.
+ Được thăng Văn Minh điện đại học sĩ, tước [và mỹ hiệu – bt.] Kỳ Vĩ hầu.
+ Ngày 29 / 11 (29-10 Quý mùi - bt.], cùng Tôn Thất Thuyết lập Ưng Đăng lên ngôi, lấy niên hiệu là Kiến Phúc.
+ Kiêm quản Khâm thiên giám, tổng tài Quốc sử quán.
+ Thiết kế và chỉ đạo xây dựng thành Tân Sở, Quảng Trị.
Năm 1884 (Giáp thân):
+ Đổi lãnh thượng thư Bộ Lại, gia cung hàm thái phó, thăng Cần Chánh điện đại học sĩ, tước [và mỹ hiệu – bt.] Kỳ Vỹ quận công, sung làm giảng quan ở kinh diên [nơi vua học – bt.].
+ Ngày 2 / 8 (12-6 Giáp thân - bt.], cùng với Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật tôn Ưng Lịch (Hàm Nghi) lên làm vua.
+ Loại trừ các phần tử chủ hòa, chuẩn bị kháng Pháp.
Năm 1885 (Ất dậu):
+ Ngày 5 / 7 / 1885, kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, ông theo chỉ dụ của Từ Dụ thái hoàng thái hậu ở lại thương thuyết với tướng Pháp De Courcy về nội tình ở Huế [và cả nước – bt.].
+ Ngày 6 / 9 / 1885, bị đi đày tận Côn Đảo cùng với 2 nhân vật kháng chiến Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính.
Năm 1886 (Bính tuất):
+ Tháng 2 / 1886, bị đày sang đảo Tahiti thuộc Pháp.
+ Ngày 30 / 7 / 1886, mất tại Tahiti do bị bệnh ở cổ.
+ Ngày 9 / 12 / 1886, Pháp cho khai quật quan tài đưa về an táng tại quê hương (làng An Cư, Quảng Trị).
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Phan Thuận An, Quanh sự thất thủ kinh đô, Tạp chí Huế xưa & nay, số 10/1995.
2. Nguyễn Thế Anh, Việt nam thời Pháp đô hộ, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1970.
3. Đào Duy Anh, Bang giao Việt Pháp 1958 - 1945, Ban Văn - Sử - Địa, Đại học Văn khoa Huế, 1967.
4. Đỗ Bang, Đoàn Hữu Trưng và cuộc khởi nghĩa ở kinh thành Huế năm 1866, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2 / 1986.
5. Đỗ Bang, Di tích Tân Sở Quảng Trị - Những phát hiện Khảo cổ học năm 1989.
6. Đỗ Bang, Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn (1802 - 1884), Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997.
7. Đỗ Bang, Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn, Những vấn đề đặt ra hiện nay, Nxb Thuận hóa, Huế, 1998.
8. Đỗ Bang, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Quang Trung Tiến, Đinh Xuân Lâm, Lưu Anh Rô, Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1999.
9. Vũ Đức Sao Biển, Đọc thơ Nguyễn Văn Tường, KYHNKH. Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, ĐHSP TPHCM, 1996.
10. L. Cardiere, Tiểu truyện người quá cố: Giám mục Caspard, BAVH., tập 4, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1998.
11. L. Cardière, Hoàng đế Trung Hoa sắc phong cho vua Tự Đức như thế nào, BAVH., tập 3, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997.
12. H. Cosserat, Những người đã đến Huế xưa: Dutreuil De Rhins, BAVH., tập 4, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1998.
13. Trương Thị Cúc, Tôn Thất Thuyết và vai trò chống Pháp của ông ở Huế, luận văn tốt nghiệp cử nhân khoa học lịch sử, ĐHKH. Huế, 1981.
14. Phan Trần Chúc, Vua Hàm Nghi, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1995.
15. Mạc Đường, Lê Trung (chủ biên), Những vấn đề kinh tế - xã hội thời Nguyễn, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1992.
16. A. Delvaux, Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên, BAVH., tập 3, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997.
17. Nguyễn Văn Đăng, Về chế độ phong kiến nhà nước quan liêu triều Nguyễn, Kỷ yếu 25 năm Khoa Lịch sử (1976 - 2001), Nxb Thuận Hóa, Huế, 2001.
18. Võ Xuân Đàn, Nguyễn Văn Tường trước và sau vụ biến kinh thành Huế 5 / 7 / 1885, KYHNKH. Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, ĐHSP TPHCM., 1996.
19. Trần Văn Giàu, Ý thức hệ phong kiến và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb.TPHCM., 1993.
20. Trần Văn Giàu. Chống xâm lăng, tập 1, 2, Nxb Xây Dựng, 1956.
22. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Triều đình Huế giai đoạn 1883 - 1885 qua tác phẩm Hạnh Thục ca, luận văn tốt nghiệp khoa lịch sử, ĐHSP TPHCM., 2000.
23. Tôn Thất Hào, Chiêu tuyết Kỳ Vỹ quận công Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886), KYHTKH. Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn văn Tường, ĐHSP TPHCM., 1996.
24. Phạm Khắc Hòe, Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1996.
25. Nguyễn Văn Kiệm, Cuộc kháng chiến chống Pháp tiếp tục của nhà nước phong kiến những năm 80 thế kỷ XIX, KYHNKH. “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, ĐHSP TPHCM., 1996.
26. Nguyễn Văn Kiệm, Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 6/ 1993.
27. Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử 1862 – 1945, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, SG., 1971.
28. Nguyễn Văn Kiểm [? - Bt.], Cố Đô Huế, Nxb Đà Nẵng, 1994.
29. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, quyển 2, Nxb TPHCM., 2000.
30. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo Dục, 1998.
31. Đinh Xuân Lâm, Triêu Dương (sưu tầm và giới thiệu), Vè thất thủ kinh đô, Nxb. Văn - Sử - Địa, 1959.
32. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Danh tướng yêu nước Tôn Thất Thuyết, Trung tâm UNESCO.TTTL LS Văn Hóa, 1998.
33. Đinh Xuân Lâm, Triều Nguyễn trước âm mưu bành trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây (1802 - 1858), T/c Nghiên cứu Lịch sử, 6/1993.
34.Đinh Gia Lâm, Sự biến kinh thành Huế 1886, luận văn tốt nghiệp khoa sử, ĐHKH Huế, 1979.
35. Hoàng Văn Lân, Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến cuối thế kỷ XIX, Nxb. Giáo Dục, H. 1979.
36. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb Đại học quốc gia, H. 2000.
37. Phan Huy Lê, Chu Thiên, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 3, Nxb. GD., H. 1960.
38. Trần Huy Liệu, Lịch sử 80 năm chống Pháp, Nxb Văn Sử Địa, H. 1957.
39. Phạm Chí Linh, Thử nhìn lại nhân vật Nguyễn Văn Tường, luận văn tốt nghiệp khoa sử, ĐHKH. Huế, 1991.
40. Nguyễn Văn Mại, Lô Giang tiểu sử, bản dịch của Nguyễn Huy Xước - Bản đánh máy.
41. Các Mác – Ăngghen, Chủ nghĩa Mác, Nxb Sự Thật, H. 1970.
42. Các Mác - Ăngghen toàn tập, tập 1, Nxb Sự Thật, H. 1970.
43. Nguyễn Phong Nam (chủ biên), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nxb GD., H. 1997.
44. Đào Trinh Nhất, Phan Đình Phùng và Việt sử giai thoại, Nxb. Văn Học, H. 2000.
45. Đỗ Văn Ninh, Quân đội nhà Nguyễn, T/c NCLS, số 6 / 1993.
46. Trần Viết Ngạc (sưu tầm và giới thiệu), Nguyễn Văn Tường - Thi tập, KYHNKH. Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, ĐHSP. TPHCM., 1996
47. Trần Viết Ngạc, Nguyễn Văn Tường qua châu bản triều Nguyễn, KYHNKH. Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, ĐHSP TPHCM.,1996
48. R. Orband, Huế năm 1885, BAVH., tập 3. Nxb. TH., Huế, 1997.
49. Nguyễn Danh Phiệt, Bộ máy nhà nước quân chủ TW tập quyền triều Nguyễn đầu thế kỷ XIX, T/c NCLS., số 6/1993.
50. Nguyễn Phan Quang, Việt nam thế kỷ XIX (1802 - 1884), Nxb TPHCM., 1999.
51. Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (1858-1945), tập 1, Nxb KHXH., H.1981.
52. QSQTN. ĐNTL. Tập 24. Nxb KHXH. H. 1971.
53. QSQTN. ĐNTL. Tập 28. Nxb KHXH. H. 1973.
54. QSQTN. ĐNTL. Tập 29. Nxb KHXH. H. 1974.
55. QSQTN. ĐNTL. Tập 30. Nxb KHXH. H. 1974.
56. QSQTN. ĐNTL. Tập 31. Nxb KHXH. H. 1974.
57. QSQTN. ĐNTL. Tập 32. Nxb KHXH. H. 1975.
58. QSQTN. ĐNTL. Tập 33. Nxb KHXH. H. 1975.
59. QSQTN. ĐNTL. Tập 34. Nxb KHXH. H. 1976.
60. QSQTN. ĐNTL. Tập 35. Nxb KHXH. H. 1976.
61. QSQTN. ĐNTL. Tập 36. Nxb KHXH. H. 1976.
62. QSQTN. ĐNTL. Tập 37. Nxb KHXH. H. 1977.
63. Trần Thị Thanh Thanh, Nhìn lại việc phế lập trong triều đình Huế năm Quí Mùi, 1883. KYHNKH. Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, ĐHSP.TPHCM., 1996.
64. Nguyễn Nhược Thị, Hạnh Thục ca (Trần Trọng Kim phiên âm và hiệu đính), Nxb Tân Việt, SG., 1950.
65. Nguyễn Hữu Thông, Nguyễn Quang Trung Tiến, “Những năm tháng đáng quên của Nguyễn Văn Tường”, KYHNKH. Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, ĐHSP TPHCM., 1996.
66. Nguyễn Quang Trung Tiến, Lê Văn Sách, Sự chuyển hướng chiến lược của phái chủ chiến sau sự biến kinh thành Huế, KHHNKH. Nhóm chủ chiến trong tiều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, Trường ĐHSP TPHCM., 1996.
67. Nguyễn Quang Trung Tiến, Vị hoàng đế trưởng thành từ niên thiếu, in trong “Danh tướng yêu nước Tôn Thất Thuyết”, Trung tâm UNESCO. TTTL. lịch sử và văn hóa xuất bản, H. 1998.
68. Nguyễn Quang Trung Tiến, Tôn Thất Thuyết, anh hào Lắm nỗi nhiêu khê, in trong “Danh tướng yêu nước Tôn Thất Thuyết”, TT UNESCO. TTTL Lịch sử và Văn hóa xuất bản, H. 1998.
69. Nguyễn Quang Trung Tiến, Tân Sở, một sai lầm chiến lược của phe chủ chiến, TTKH về phong trào Cần Vương và căn cứ Tân Sở, Sở KHCN và Môi Trường Quảng Trị, 1995.
70. Đặng Đức Thi, Một cách tiếp cận cuộc chiến (1858 - 1884), in trong: Một số vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nxb GD., H. 1997.
71. Y.Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nxb Trẻ TPHCM. (in lần thứ 3), 2000.
72. H. Le Marchant de Trigon, Lễ đăng quang vua Hàm nghi, BAVH., Nxb TH. (tập 4), Huế, 1998.
73. H. Le Marchant de Trigon, Hòa ước năm 1862 giữa Pháp, Tây Ban Nha và An Nam, tài liệu tổng hợp, BAVH (tập 5), Nxb TH., Huế, 1998.
74. De Pirey, Một thủ đô phù du: Tân Sở, BAVH (tập 1), Nxb TH., Huế, 1997.
75. Trần Đại Vinh, Tấc lòng yêu nước son sắt của Nguyễn Văn Tường, KYHNKH. Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, Trường ĐHSP TPHCM., 1996.
76. Trần Đại Vinh, Di cảo Nguyễn Văn Tường, TTKH. Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên Huế, số 2, 1991.
77. Nguyễn Đắc Xuân, Chuyện ba vua: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân, Nxb TH. Huế, 1992.
78. Nguyễn Đắc Xuân (sưu tầm và giới thiệu), Hương Giang cố sự, Tủ sách Sông Hương, Nxb TH., Huế, 1986.
79. Các bản gia phả họ Nguyễn Văn tại làng An Cư, xã Triệu Phước, Triệu Phong, Quảng Trị.
80. Đại loạn năm Ất Dậu và Dậu Tuất niên gian Phong hỏa ký sự, in trong: Đặng Đức Tuấn - Tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam, của Lam Giang, Võ Ngọc Nhã, tác giả tự xuất bản, SG., 1970.
81. Kỷ yếu hội nghị khoa học nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, Trường ĐHSP TPHCM., 1996.
82. Nhiều tác giả, Côn Đảo, ký sự và tư liệu, Nxb Trẻ, TPHCM., 1996.
83. Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 25 / 6 / 1996.
84. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824-1886), TTKHXH & NV Huế - Đại học Huế & Hội KHLThừa thiên Huế, 2002.
NHÂN CHỨNG [VỀ QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU - bt.] ĐIỀN DÃ
(Các hậu duệ Nguyễn Văn Tường)1. Ông Nguyễn Văn Bưa, 80 tuổi, cháu đời thứ 4, trú tại thị xã Đông Hà, Quảng Trị.
2. Ông Nguyễn Thanh Đàn, 75 tuổi, cháu đời thứ 4, trú tại TP Huế.
3.Ông Nguyễn Thanh Mừng, 76 tuổi, cháu đời thứ 4, trú tại thị xã Đông Hà, Quảng Trị.
4.Ông Nguyễn Văn Sở, 73 tuổi, cháu đời thứ 4, trú tại làng An Cư, Triệu Phong, Quảng Trị.
5. Ông Nguyễn Văn Sơn, 45 tuổi, đời thứ 5, trú tại làng An Cư, Triệu Phong, Quảng Trị.
6. Ông Nguyễn Văn Xuân, 60 tuổi, cháu đời thứ 4, trú tại làng An Cư, Triệu Phong, Quảng Trị.
7. Ông Nguyễn Tư Trừng, 72 tuổi, cháu đời thứ 4, trú tại TP. Huế.
Sinh viên thực hiện luận văn cử nhân khoa lịch sử:
LÊ TIẾN CÔNGHuế, 2005
(hiện là Cán bộ giảng dạy Khoa Lịch sử,
Đại học Khoa học Huế;
phóng viên Tạp chí Huế Xưa & Nay)
HẾT______________________________Trần Xuân An dã nhận bản thứ nhất từ Lê Tiến Công, qua Yahoo Mail, font VNtime, vào ngày 16-3 HB5 (2005) [02-6 Ất dậu HB5], và đã in ra giấy, đóng thành một tập để lưu.
Bản này là bản thứ hai, font Time New Roman, Trần Xuân An cũng nhận từ Lê Tiến Công, qua Yahoo Mail, chiều 18-11 HB6 (2006) [28-9 Bính tuất HB6]. 1. PGS. TS. Đỗ Bang
2. Thạc sĩ Nguyễn Quang Trung Tiến
(căn cứ vào bản Lê Tiến Công gửi qua Yahoo Email, ngày 16-3-2005).
21-11 HB6 (2006).
23-11 HB6 (2006).